Gân bánh chè nằm ở vị trí trước gối, dưới xương bánh chè, có chức năng làm duỗi gối. Tổn thương gân bánh chè có thể gặp ở mọi lứa tuổi, tuy nhiên thường gặp hơn là tuổi trung niên, đặc biệt là vận động viên điền kinh, nhảy cao. Khi đứt hoàn toàn gân bánh chè, bệnh nhân mất khả năng duỗi gối, điều trị bằng phẫu thuật là bắt buộc.
Vị trí giải phẫu gân bánh chè
Gân bánh chè bám từ cực dưới xương bánh chè đến đầu trên xương chầy (hình 1).
Bám cực trên xương bánh chè là gân cơ tứ đầu. Như vậy gân bánh chè và gân cơ tứ đầu có vai trò như dây ròng rọc, rãnh liên lồi cầu đùi như ròng rọc. Khi cơ tứ đầu co sẽ kéo căng gân bánh chè, tạo nên động tác duỗi gối.
Mô tả
Gân bánh chè có thể tổn thương hoàn toàn hoặc không hoàn toàn.
- Tổn thương không hoàn toàn: gân bánh chè được tạo nên bởi nhiều thớ sợi hợp lại, giống như dây cáp được tạo bởi nhiều sợi cáp. Tổn thương không hoàn toàn gân bánh chè là hiện tượng đứt ngầm, hay đứt một số thớ sợi nhất định trong gân, những thớ còn lại vẫn giữ được vai trò duỗi gối nhưng yếu hơn. Trong trường hợp này, gối có thể duỗi được nhưng yếu và duỗi không hết tầm.
- Tổn thương hoàn toàn: là đứt hoàn toàn các thớ của gân bánh chè. Gân bánh chè thường đứt tại vị trí bám vào cực dưới xương bánh chè, có thể bong một phần chỗ bám. Khi đứt hoàn toàn, gân bánh chè co ngắn lại về hai phía, trên lâm sàng mất hoàn toàn khả năng duỗi gối. Nếu đứt gân bánh chè do bệnh lý (viêm gân), vị trí đứt thường là 1/3 giữa của gân.
Nguyên nhân
- Chấn thương. Để đứt gân bánh chè phải có một lực chấn thương rất lớn
+ Ngã: một lực va chạm mạnh, trực tiếp vào trước gối do ngã hoặc bị đánh. Vết chém trực tiếp vào trước gối là nguyên nhân không hiếm gặp.
+ Nhảy cao. Gân bánh chè dễ bị tổn thương khi nhảy cao, chân tiếp đất trong tư thế gối gấp, bàn chân “duỗi” (gấp về phía gan chân) (hình 3).
- Bệnh lý. Khi bệnh lý, gân bánh chè mất sức bền, rất dễ bị tổn thương. Khi đứt gân trên nền bệnh lý, gân thường đứt ở vị trí 1/3 giữa. Một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng này:
+ Viêm gân bánh chè. Viêm gân bánh chè thường thấy ở những người liên quan đến các động tác lặp đi lặp lại, thường xuyên như chạy, nhảy (vận động viên) (Hình 4). Tiêm corticoid vào trực tiếp hoặc xung quanh gân bánh chè là một nguyên nhân làm yếu và tăng nguy cơ đứt gân bánh chè.
+ Bệnh lý mãn tính. Một số bệnh lý mãn tính dẫn đến tình trạng cấp máu kém cũng làm cho gân bánh chè bị yếu và đễ tổn thương:
– Suy thận mạn
– Viêm khớp dạng thấp
– Bệnh đái tháo đường
– Bệnh chuyển hóa
– Nhiễm trùng
– Một số bệnh lý bắt buộc sử dụng corticoid dài ngày
- Phẫu thuật. Một số phẫu thuật xung quanh vùng gối trước đó như thay khớp gối, tái tạo dây chằng chéo trước bằng gân bánh chè tự thân đều làm tăng nguy cơ đứt gân bánh chè.
Triệu chứng
Ngay sau chấn thương, bệnh nhân cảm thấy đau và gối từ từ sưng lên, đồng thời xuất hiện các triệu chứng kèm theo:
– Sờ thấy vùng lõm (mất liên tục) ngay cực dưới xường bánh chè (nơi vị trí gân bánh chè bị rách)
– Bầm tím
– Chuột rút (co cơ)
– Xương bánh chè lên cao hơn bình thường
– Không thể duỗi hết gối
– Bước đi khó khăn
– Thăm khám.
Bác sĩ sẽ khai thác người bệnh về tiền sử chấn thương và các bệnh lý liên quan bằng các câu hỏi:
+ Đã bao giờ bị chấn thương trực tiếp vào vùng gối chưa?
+ Có bị viêm gân bánh chè không?
+ Đã từng được phẫu thuật ở vùng gối chưa, ví dụ như phẫu thuật thay khớp gối, tái tạo dây chằng chéo trước bằng gân bánh chè tự thân.
+ Có mắc các bệnh mãn tính nào không?
– Thăm khám gối:
Để xác định chính xác có tổn thương gân bánh chè trên lâm sàng, bác sĩ yêu cầu người bệnh duỗi gối chủ động, động tác này có thể gây đau.
Chẩn đoán hình ảnh
Để khẳng định thêm chẩn đoán, người bệnh cần được chụp phim Xquang thường hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI) vùng gối.
– Trên phim Xquang thường, chụp tư thế nghiêng: xương bánh chè nằm ở vị trí cao hơn bình thường (Hình 5A). Trong đứt hoàn toàn gân bánh chè, chỉ cần chụp Xquang thường là đủ chẩn đoán.
Để xác định vị trí xương bánh chè, dựa vào tỷ lệ giữa chiều dài gân bánh chè (A) và chiều dài xương bánh chè (B) trên phim Xquang thường hoặc trên phim MRI gối, bình diện nghiêng, gối gấp 30 độ. Bình thường tỷ lệ A:B giao động từ 0,8-1,2 (gọi là tỷ lệ Insall-Salvati). Nếu > 1,2 (theo một số tác giả là >1,5) thì chứng tỏ xương bánh chè lên cao (Hình 6).
– Chụp MRI: Phim MRI hiển thị hình ảnh rõ nét hơn về các tổn thương phần mềm. Với tổn thương gân bánh chè, chụp phim MRI có thể xác định được mức độ (đứt hoàn toàn hay không hoàn toàn), vị trí của đứt gân (Hình 7). Đôi khi, phim MRI còn giúp chẩn đoán phân biệt với các tổn thương khác có triệu chứng lâm sàng tương tự.
Điều trị đứt gân bánh chè (Xin đọc bài viết: “Điều trị đứt gân bánh chè”)
Thạc sĩ Dương Đình Toàn