TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Nghiên cứu này được thực hiện để đánh giá mức độ phục hồi vị trí giải phẫu của mảnh ghép dây chằng chéo trước (DCCT) và ảnh hưởng của nó tới kết quả phẫu thuật.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 34 bệnh nhân (BN) được phẫu thuật tái tạo DCCT qua nội soi bằng kỹ thuật 1 bó với chất liệu sử dụng mảnh ghép là gân Hamstring tự thân, từ tháng 12 năm 2012 đến tháng 6 năm 2013. Đánh giá mức độ phục hồi vị trí giải phẫu của mảnh ghép dựa trên hình ảnh MRI sau mổ và so sánh với 34 khớp gối lành.
Kết quả: Góc nghiêng mảnh ghép ở nhóm tái tạo DCCT trung bình là 55,20 ± 2,60, trong khoảng từ 470 đến 650. Ở nhóm đối chứng, góc nghiêng trung bình là 52,30 ± 3,40, trong khoảng từ 460 đến 570. Sự khác biệt giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Kết luận: Góc nghiêng của mảnh ghép DCCT có thể được xác định đáng tin cậy trên lát cắt mặt phẳng thẳng dọc của phim MRI và cung cấp một thước đo hữu ích cho đánh giá kết quả sau mổ.
Anatomic laction of the ACL graft- a factor impacting on surgical outcome
Abstract
Background: This study was conducted to assess the recovery anatomic location of the anterior cruciate ligament (ACL) and its impact on surgical outcome.
Materials and Methods: Between December 2012 and June 2013, sagittal MRIs from 34 patients with a reconstructed ACL graft were reviewed. Reconstructed patients were operated on single bundle technique using Hamstring tendon autograft. Assessing the recovery position of the grafted on postoperative magnetic resonance imaging (MRI) and compared with 34 individuals with a stable knee and an intact ACL determined by history and physical examination.
Results: Graft obliquity in reconstructed patients averaged 55,20 ± 2,60 with a range between 47° and 65°. In normal controls, intact ACL obliquity averaged 52,30 ± 3,40 with a range between 46° and 57°. The difference between the two groups was not statistically significant (p > 0,05).
Conclusions: Inclination angle can be reliably determined from sagittal MRI and provide a useful metric for postoperative evaluations.
Key words: ACL reconstruction, MRI evaluation, inclination angle, functional anatomy.
Đặt vấn đề
Từ đầu thế kỷ 20 các tác giả trên thế giới đã tiến hành phẫu thuật tái tạo DCCT, cho đến nay kỹ thuật này đã được phổ biến một cách rộng rãi. Tuy nhiên, tất cả các phương pháp phẫu thuật vẫn chưa phục hồi hoàn toàn giải phẫu của DCCT, hiện nay vẫn tồn tại những tranh cãi xung quanh vấn đề này [10]. Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu công bố cho thấy phẫu thuật tái tạo DCCT càng sát với giải phẫu thì cho kết quả càng khả quan. Để chứng minh điều này và để xem xét vị trí giải phẫu của mảnh ghép ảnh hưởng như thế nào đến kết quả điều trị, các tác giả trên thế giới đã cố gắng áp dụng nhiều biện pháp như: phẫu thuật nội soi lại (second look) để đo đạc trực tiếp, chụp cắt lớp vi tính dựng hình 3D để đánh giá vị trí đường hầm từ đó gián tiếp xác định vị trí giải phẫu của mảnh ghép, chụp MRI đánh giá hướng đi, góc nghiêng, chiều dài của mảnh ghép, chụp XQ đánh giá vị trí đường hầm…
Tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, phẫu thuật nội soi tái tạo DCCT đã tiến hành từ 20 năm nay, và cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu cho thấy kết quả phẫu thuật trên lâm sàng rất khả quan. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào đánh giá vị trí của mảnh ghép và sự ảnh hưởng của nó đến kết quả điều trị. Chính vì vậy, căn cứ vào tình hình thực tế của cơ sở nghiên cứu, để rút ra một số bài học nhằm bổ sung một số kinh nghiệm cho phẫu thuật viên, trong báo cáo này chúng tôi thực hiện với mục đích: đánh giá vị trí của mảnh ghép sau tái tạo DCCT một bó và ảnh hưởng đến kết quả phẫu thuật, từ đó rút ra một số kinh nghiệm trong phẫu thuật tái tạo DCCT.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu
Gồm 34 BN được chẩn đoán đứt DCCT và tái tạo qua nội soi theo kỹ thuật 1 bó bằng gân cơ thon và bán gân tự thân. Các BN này được phẫu thuật trong thời gian từ tháng 12 năm 2012 đến tháng 06 năm 2013 tại khoa Phẫu thuật khớp – Viện chấn thương chỉnh hình – Bệnh viện TWQĐ 108. Độ tuổi từ 17 đến 48, tuổi trung bình là 33 tuổi. Trong đó có 24 BN nam và 10 BN nữ. Thời gian theo dõi ngắn nhất là 12 tháng, dài nhất là 18 tháng, trung bình là 14 tháng. Điểm Lysholm trung bình trước mổ là 58,3 ± 6,4 điểm.
Nhóm chứng gồm 34 BN không có tổn thương DCCT.
2. Phương pháp nghiên cứu
Tất cả các BN trong nhóm nghiên cứu được chụp MRI 3.0-Tesla sau mổ ở tư thế khớp gối duỗi hoàn toàn và xoay ngoài nhẹ khoảng 150. Hình ảnh được xử trí và phân tích trên phần mềm Optimedi Planner 2D. Các chỉ số nghiên cứu:
– Góc nghiêng mảnh ghép DCCT trên lát cắt mặt phẳng thẳng dọc (sagittal) của phim MRI: xác định bởi góc tạo bởi giữa đường song song với mảnh ghép DCCT và đường vuông góc với trục dọc của xương chày (Hình A).
– Vị trí điểm bám của mảnh ghép DCCT tại mâm chày được xác định bằng tỷ lệ % khoảng cách từ tâm đầu ra đường hầm mâm chày đến bờ trước nhất của mâm chày với khoảng cách trước sau của mâm chày.
Các chỉ số trên cũng được chúng tôi đánh giá trên nhóm chứng. Kết quả thu được đem so sánh giữa 2 nhóm.
3. Đánh giá kết quả
+ Kết quả đo góc nghiêng, vị trí điểm bám của mảnh ghép tại mâm chày trên MRI.
+ Đánh giá chức năng khớp gối trước và sau phẫu thuật dựa theo thang điểm của Lysholm, độ vững chắc và biên độ vận động của khớp gối dựa theo tiêu chuẩn Hiệp hội khớp gối quốc tế IKDC.
Kết quả nghiên cứu
1. Đặc điểm số liệu nghiên cứu
Bảng1. Góc nghiêng mảnh ghép DCCT và nhóm chứng (n=34)
Góc nghiêng |
Nhóm bệnh |
Nhóm chứng |
||
Số BN |
Tỷ lệ % |
Số người |
Tỷ lệ % |
|
Cao |
5 |
14,7 |
0 |
0 |
Bình thường |
29 |
85,3 |
34 |
100 |
Thấp |
0 |
0 |
0 |
0 |
Tổng |
34 |
100 |
34 |
34 |
Lấy nhóm chứng làm kết quả bình thường với góc nghiêng DCCT từ 460 đến 570, trung bình là 52,30 ± 3,40. Góc nghiêng mảnh ghép trung bình là 55,20 ± 2,60, trong khoảng từ 470 đến 650.
Bảng 2. Vị trí điểm bám của mảnh ghép DCCT tại mâm chày (n=34)
Vị trí |
Nhóm bệnh |
Nhóm chứng |
||
Số BN |
Tỷ lệ % |
Số người |
Tỷ lệ % |
|
Ra trước |
1 |
2,9 |
0 |
0 |
Bình thường |
30 |
88,3 |
34 |
100 |
Ra sau |
3 |
8,8 |
0 |
0 |
Tổng |
34 |
100 |
34 |
34 |
Lấy nhóm chứng làm kết quả bình thường với vị trí điểm bám tại mâm chày của DCCT theo chiều trước sau từ 44% đến 50%. Trong 34 BN, đa số các mảnh ghép có vị trí bình thường, vị trí gần cực trước nhất mà chúng tôi đo được là 42,2%, xa cực trước nhất là 53,1%.
2. Kết quả
2.1. Điểm Lysholm theo góc nghiêng
Bảng 3. Kết quả điểm Lysholm theo góc nghiêng mảnh ghép DCCT (n=34)
Lysholm |
Rất tốt |
Tốt |
Trung bình |
Kém |
Tổng |
Cao |
2 |
2 |
1 |
0 |
5 |
Bình thường |
25 |
3 |
1 |
0 |
29 |
Thấp |
0 |
0 |
0 |
0 |
0 |
Tổng |
27 |
5 |
2 |
0 |
34 |
Theo phân loại Lyshom, điểm trung bình tại thời điểm theo dõi: 93,3 ± 2,5 điểm, cao nhất là 99 điểm và thấp nhất là 74 điểm. Trong 2 BN đạt kết quả trung bình có 1 BN thuộc nhóm góc nghiêng cao, và 1 BN thuộc nhóm góc nghiêng bình thường.
2.2. Đánh giá IKDC theo góc nghiêng
Bảng 4. Kết quả IKDC theo góc nghiêng mảnh ghép DCCT (n=34)
IKDC |
A |
B |
C |
D |
Tổng |
Cao |
3 |
1 |
1 |
0 |
5 |
Bình thường |
23 |
5 |
1 |
0 |
29 |
Thấp |
0 |
0 |
0 |
0 |
0 |
Tổng |
26 |
6 |
2 |
0 |
34 |
Trong 2 BN đạt kết quả phân loại C có 1 BN thuộc nhóm góc nghiêng cao, và 1 BN thuộc nhóm góc nghiêng bình thường.
Bàn luận
1. Vị trí giải phẫu của dây chằng chéo trước
Vị trí chính xác của mảnh ghép là một yếu tố quan trọng đem lại thành công sau phẫu thuật tái tạo DCCT, ngược lại nếu vị trí không chính xác sẽ dẫn đến sự căng giãn không bình thường, hạn chế vận động và lỏng khớp tái diễn, là nguyên nhân phổ biển gây thất bại [13].
Theo nghiên cứu của Kenneth và cs. [10] góc nghiêng DCCT nguyên vẹn từ 430 đến 570, trung bình là 49,90 ± 2,80. Ahn và cs. [2] đo được góc nghiêng trung bình của DCCT nguyên vẹn là 58,70. Ayerza và cs. [4] báo cáo góc nghiêng này là 510 của DCCT còn nguyên vẹn. Theo Hantes và cs. [8], góc trung bình của gối lành là 520.
Ahn và cs. [2] thực hiện kỹ thuật khoan lồi cầu đùi qua mâm chày sử dụng chất liệu mảnh ghép là gân Hamstring tự thân, thấy rằng góc nghiêng này khá lớn (64,60) và không thể phục hồi được góc của DCCT còn nguyên vẹn. Trong khi Kenneth và cs. [10] so sánh giữa 2 nhóm sử dụng kỹ thuật khoan lồi cầu đùi qua mâm chày và qua lối vào trước trong, thấy rằng góc nghiêng mảnh ghép trung bình của 2 nhóm này tương ứng là 63,50 ± 7,20 và 51,80 ± 6,50, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Hantes và cs. [8] báo cáo góc nghiêng đo được trên phim MRI là 710 với kỹ thuật khoan lồi cầu đùi qua mâm chày và 630 với kỹ thuật khoan qua cổng vào trước trong.
Nhìn chung trong các nghiên cứu trên thì góc nghiêng của mảnh ghép DCCT đều lớn hơn giải phẫu khi so sánh với gối bên không tổn thương [8]. Nhiều yếu tố tham gia vào điều này có thể do kỹ thuật mổ, vị trí bám của DCCT tại lồi cầu xương đùi và mâm chày, hay sự thay đổi giải phẫu của từng BN.
– Về vị trí bám của DCCT tại mâm chày:
Để đánh giá kết quả sau mổ, nhiều tác giả đã mô tả vị trí điểm bám của mảnh ghép DCCT tại mâm chày theo chiều trước sau của mâm chày.
Trên MRI: Howell và Taylor [9] mô tả vị trí trung tâm của mảnh ghép DCCT không bị chèn ép bởi mái của hố liên lồi cầu là 42% ± 2,8% theo chiều trước sau của mâm chày. Một số nghiên cứu khác, điểm bám của DCCT không bị tổn thương tại mâm chày thì vị trí này là 45,6% ± 6,5% theo một nghiên cứu và 44% theo một nghiên cứu khác [11],[16] trong đó vị trí của bó trước trong và sau ngoài tương ứng là 41% ± 3% và 52% ± 3%. Theo Peter T. Scheffe và cs. [12] vị trí này của DCCT 44,1% ± 3,4% (trong khoảng 43,2% – 45,0%).
Trên thực nghiệm: Theo Mario F. và cs. (2012) [6], báo cáo kết quả nghiên cứu giải phẫu điểm bám chày của DCCT ở 8 tử thi tươi trưởng thành, kết quả cho thấy gai chày trong và dây chằng liên sụn chêm là mốc giải phẫu hằng định để xác định vị trí điểm bám DCCT ở mâm chày, mối liên quan giải phẫu giữa sừng trước sụn chêm ngoài với điểm bám của dây chằng tại mâm chày là không hằng định, gai chày ngoài thì thường nhỏ nên khó xác định mốc giải phẫu trong phẫu thuật.
Thực tế lâm sàng ở những trường hợp đến muộn, gốc DCCT không còn thì DCCS và sừng trước sụn chêm ngoài là các mốc giải phẫu quan trọng để xác định vị trí của đường hầm chày. Đáng chú ý khoảng cách từ DCCS đến tâm của DCCT thì thay đổi theo mỗi cá thể, khoảng cách này xa nhất có thể tới 14 mm [5]. Các kỹ thuật xác định vị trí đường hầm mâm chày căn cứ vào sừng trước sụn chêm ngoài cũng không thật sự chính xác do những thay đổi lớn về giải phẫu của sụn chêm ngoài và những trường hợp bị tổn thương sừng trước sụn chêm ngoài. Chính bởi lẽ đó Siebold R. và cs. (2008) (15) cho rằng tái tạo DCCT phải theo đặc điểm riêng biệt của mỗi BN.
– Về vị trí bám của DCCT tại lồi cầu đùi:
Phẫu thuật tái tạo DCCT dạng 1 bó được gọi là kỹ thuật “isometric”, vị trí đường hầm đùi không nằm đúng vị trí giải phẫu của dây chằng bám vào mặt trong lồi cầu ngoài (cao hơn và sau hơn). Phần còn lại của DCCT và mốc xương ở lồi cầu ngoài là dấu vết chủ yếu để xác định vị trí đường hầm ở lồi cầu đùi [7],[14]. Các mốc xương có thể được sử dụng tốt để xác định vị trí của đường hầm đùi, tuy nhiên không dễ dàng nhận dạng ở 1 số trường hợp. Nếu điểm bám đùi không thể xác định được bằng các mốc xương và dấu vết còn lại, Van Eck và cộng sự khuyên tạo đường hầm đùi ở vào khoảng 30% – 35% dưới của mặt trong lồi cầu ngoài [17]. Kỹ thuật này khó ứng dụng trong phẫu thuật.
Mặc dù kỹ thuật xác định vị trí của đường hầm đùi căn cứ vào đồng hồ giờ (clock face) đã được chấp nhận rộng rãi trong y văn để mô tả vị trí của đường hầm đùi trong phẫu thuật tái tạo DCCT, nhưng kỹ thuật này không chính xác bằng căn cứ vào dấu vết giải phẫu (anatomic footprint) của DCCT. Vị trí theo giờ đồng hồ dựa trên XQ ở tư thế gối duỗi, nhưng phẫu thuật tái tạo DCCT lại được thực hiện ở tư thế gối gấp xung quanh 90º. Vị trí của đồng hồ tùy thuộc vào vị trí của đồng hồ ở phía trước hay phía sau của khe liên lồi cầu. Cesar A.Q.M. [6] cho rằng vị trí theo đồng hồ không có vai trò trong phẫu thuật tái tạo giải phẫu DCCT. Tác giả này cũng nhấn mạnh ưu điểm của vị trí đường hầm đúng theo giải phẫu là tạo được cơ sinh học bình thường và cho rằng chỉ khi khôi phục lại giải phẫu DCCT thì mới có thể tái tạo lại kết quả tốt nhất.
– Trong nghiên cứu của chúng tôi: Góc nghiêng của mảnh ghép DCCT đo được trên phim MRI trong khoảng từ 470 đến 650, trung bình là 55,20 ± 2,60. So sánh với nhóm chứng có góc từ 460 đến 570, trung bình là 52,30 ± 3,40. Tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Để tái tạo lại góc nghiêng theo giải phẫu chúng tôi nhận thấy các vấn đề sau:
+ Với đường hầm mâm chày để tránh tạo đường hầm ra sau hoặc ra trước quá theo diện trước sau của mâm chày chúng tôi luôn tôn trọng các mốc giải phẫu, đặc biệt luôn cố gắng bảo tồn tối đa phần di tích còn lại của gốc DCCT, vừa để làm mốc trong tạo đường hầm tại, đồng thời để kích thích sự tân tạo mạch nuôi mảnh ghép đi lên từ gốc dây chằng. Để xác định vị trí điểm ra của đường hầm mâm chày phía trong khớp gối, thông thường chúng tôi xác định theo di tích gốc DCCT, trong một số trường hợp di tích này không còn rõ ràng thì chúng tôi xác định điểm vào nằm ngay trước giữa 2 gai chày, hơi lệch vào phía gai chày trong ngang với bờ sau sừng trước của sụn chêm ngoài. Khoan đường hầm theo hướng chếch khoảng 500 – 550 so với mặt phẳng mâm chày và nghiêng 200 so với mặt phẳng đứng dọc của cẳng chân.
+ Với đường hầm lồi cầu đùi, về kỹ thuật hiện nay hầu hết các tác giả thực hiện khoan đường hầm qua cổng vào trước trong, đồng thời khuyên phải nhận diện các mốc giải phẫu rõ ràng. Để xác định rõ các mốc giải phẫu chúng tôi chọn đường vào trước ngoài sát với bờ ngoài gân bánh chè để tăng góc quan sát lồi cầu ngoài, dùng Shaver và Arthrocare dọn bộc lộ để xác định rõ dấu vết bám giải phẫu của bó trước trong và bó sau ngoài, gờ xương giữa hai bó ở mặt trong lồi cầu ngoài và toàn bộ bờ sau của lồi cầu ngoài. Vị trí của đường hầm ở điểm khoảng 9.30 giờ đối với gối bên phải và 2.30 giờ đối với gối bên trái, ra trước so với bờ sau của lồi cầu ngoài khoảng 5 – 7 mm, định vị phía trong khớp được móc chặt vào bờ sau của lồi cầu ngoài. Thời gian gần đây, nhiều nghiên cứu đề cập đến kỹ thuật 3 cổng vào là cổng trước trong, trước ngoài và cổng vào hỗ trợ bên trong, với kỹ thuật này vị trí bám của DCCT được quan sát rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi để xác định và khoan tạo đường hầm đùi chính xác theo giải phẫu.
2. Vị trí mảnh ghép ảnh hưởng đến kết quả điều trị
Theo quan điểm của các tác giả trên thế giới nhấn mạnh khi mảnh ghép được đặt theo vị trí giải phẫu sẽ cho kết quả lâm sàng tốt hơn, bao gồm kiểm soát tốt hơn các dấu hiệu Lachman và Pivot-shift cũng như ổn định trong chuyển động xoay [10]. Vì vậy trong phẫu thuật tái tạo DCCT, việc xác định chính xác vị trí đặt các đường hầm ở lồi cầu xương đùi và mâm chày là rất cần thiết.
Trong nghiên cứu này, điểm Lysholm trước phẫu thuật trung bình là 58,3 ± 6,4 điểm. Sau phẫu thật ở thời điểm kiểm tra trên 12 tháng điểm Lysholm trung bình là 93,3 ± 2,5 điểm.
Không có trường hợp nào đạt kết quả kém theo thang điểm Lysholm. Có 2 BN đạt kết quả trung bình thì có 1 BN (BN số 24) thuộc nhóm có góc nghiêng bình thường, chúng tôi nhận thấy vị trí đặt đường hầm tại lồi cầu xương đùi và tại mâm chày, cũng như góc nghiêng của mảnh ghép là bình thường, song nguyên nhân do BN là quân nhân, về đơn vị phải tập luyện huấn luyện quân sự quá mức làm mảnh ghép bị căng giãn gây nên tình trạng lỏng gối. BN còn lại (BN số 22) thuộc nhóm có góc nghiêng mảnh ghép cao (do vị trí mâm chày đặt ra sau).
Hầu hết các BN không còn cảm giác lỏng gối khi sinh hoạt bình thường. Tuy nhiên có 3/34 BN còn cảm giác gối không được vững như kỳ vọng. Trong đó có 2 trường hợp khám thấy dấu hiệu Lachman dương tính rõ, 1 trường hợp dấu hiệu Lachman không rõ ràng, nhưng cơ năng đã cải thiện nhiều so với trước phẫu thuật.
Trong 2 trường hợp dấu hiệu Lachman dương tính rõ, có 1 trường hợp (BN số 24) nguyên nhân như nói ở trên. Trường hợp thứ 2 (BN số 7) tại thời điểm kiểm tra gần nhất sau mổ 12 tháng BN vẫn than phiền lỏng khớp gối khi hoạt động mạnh (đây là trường hợp BN vận động viên), kiểm tra trên phim MRI sau mổ chúng tôi nhận thấy vị trí điểm vào phía trong khớp tại mâm chày của mảnh ghép nằm hơi ra trước, tâm của mảnh ghép đo được ở vị trí 42,2% theo chiều trước sau của mâm chày, đây cũng chính là trường hợp có mảnh ghép được đặt ra tại mâm chày trước nhất và nằm ngoài giới hạn bình thường của nhóm chứng. BN này ngay sau mổ do tập luyện quá mức làm cho tràn dịch trong khớp gối, chúng tôi đã tiến hành chọc hút dịch, cố định và băng ép sau đó ổn định cho BN ra viện sau 14 ngày. Về nguyên nhân chúng tôi cho rằng do tập luyện không đúng cách làm dây chằng bị căng giãn quá mức gây lỏng gối. Như vậy 2 trường hợp này nguyên nhân gây lỏng gối đều do quá trình tập luyện không đúng phương pháp, chưa thấy sự liên quan giữa vị trí của mảnh ghép sau tái tạo với mức độ lỏng gối.
Ngoài ra còn có 4 BN khác có góc nghiêng mảnh ghép DCCT cao hơn giới hạn bình thường của nhóm chứng là các BN số 9, 15, 28, 34; trong đó có 2 trường hợp có biểu hiện di lệch xoay không rõ ràng, 2 trường hợp không có. Những trường hợp này theo chúng tôi có thể do sai số nhỏ trong quá trình đo là không thể tránh khỏi, hơn nữa so với nhóm chứng thì góc nghiêng cao hơn giới hạn bình thường là không đáng kể nên chưa thể đánh giá được hết mối liên quan giữa góc nghiêng với ổn định trong chuyển động xoay. Còn tất cả các trường hợp còn lại với góc nghiêng mảnh ghép trong giới hạn bình thường thì đều không có biểu hiện di lệch xoay. Tuy số liệu thu thập được là chưa nhiều, nhưng điều này bước đầu chứng tỏ có mối liên quan giữa độ vững xoay của khớp gối vị trí mảnh ghép.
Có 2 trường hợp khác vị trí điểm bám tại mâm chày đặt ra sau nhưng kết quả lâm sàng theo thang điểm Lysholm tốt và rất tốt,theo phân loại IKDC loại A và B. Theo chúng tôi có được kết quả như vậy là do vị trí mâm chày đặt ra sau khi so sánh với nhóm chứng không quá lớn hoặc cỡ mẫu trong nhóm chứng chưa đủ lớn, một phần có thể do thời gian theo dõi chưa đủ dài nên chúng tôi chưa đánh giá hết được mức độ phục hồi sau tái tạo.
Kiểm tra biên độ vận động ở thời điểm 12 tháng sau phẫu thuật, 30/34 BN chiếm 88,2% tầm vận động bình thường không hạn chế, các BN này hầu hết là những trường hợp tuân thủ tương đối tốt chế độ phục hồi chức năng. Bên cạnh đó, khớp gối còn hạn chế vận động chúng tôi gặp ở 4/34 BN, trong đó có 2 BN hạn chế duỗi và 2 BN hạn chế gấp gối. Hạn chế gấp nhiều nhất ở BN số 29, trường hợp này khớp gối chỉ gấp được 110°, đây là trường hợp thứ 2 trong nhóm nghiên cứu phân loại theo IKDC ở mức C. Tuy nhiên tất cả các trường hợp này đều do các nguyên nhân chủ quan như không tuân thủ theo chế độ tập luyện, do điều kiện công việc và ở xa nên không quay trở lại tái khám cũng như thường xuyên trao đổi với phẫu thuật viên. Phân tích cụ thể trên từng BN chúng tôi chưa thấy có mối liên quan khách quan nào gây hạn chế vận động khớp gối do đặt mảnh ghép ra trước của mâm chày hoặc lên cao của lồi cầu đùi gây chèn ép mảnh ghép vào mái hố liên lồi cầu xương đùi.
Mặc dù số lượng BN nghiên cứu chưa đủ lớn, thời gian theo dõi chưa dài và kết quả phẫu thuật ổn định phải ở thời điểm sau phẫu thuật trên 2 năm nhưng bước đầu chúng tôi thấy có mối liên quan giữa vị trí mảnh ghép DCCT sau tái tạo với kết quả điều trị.
V. KẾT LUẬN
Góc nghiêng mảnh ghép ở nhóm tái tạo DCCT trung bình là 55,20 ± 2,60, trong khoảng từ 470 đến 650. Ở nhóm đối chứng, góc nghiêng trung bình là 52,30 ± 3,40, trong khoảng từ 460 đến 570. Sự khác biệt giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Góc nghiêng của mảnh ghép DCCT có thể được xác định đáng tin cậy trên lát cắt mặt phẳng thẳng dọc của phim MRI và cung cấp một thước đo hữu ích cho đánh giá kết quả sau mổ. Đây là một yếu tố ảnh hưởng đến kết quả điều trị
Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Quốc Dũng, Lê Hồng Hải và Cs (BV 108)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Hoàng Anh (2009). Nghiên cứu điều trị đứt dây chằng chéo trước khớp gối bằng phẫu thuật nội soi sử dụng gân cơ bán gân và gân cơ thon. Luận án tiến sỹ y học, Học viện quân y.
2. Ahn JH, Lee SH, Yoo JC, Ha HC. Measurement of the graft angles for the anterior cruciate ligament reconstruction with transtibial technique using postoperative magnetic resonance imaging in comparative study. Knee Surg Sports Traumatol Arthrosc. 2007;15(11):1293-1300.
3. Arnold MP et al. Single-incision technique misses the anatomical femoral anterior cruciate ligament insertion: a cadaver study. Knee Surg Sports Traumatol Arthrosc. 2001; 9(4):194-199.
4. Ayerza MA, Muscolo DL, Costa-Paz M, Makino A, Rondon L. Comparison of sagittal obliquity of the reconstructed anterior cruciate ligament with native anterior cruciate ligament using magnetic resonance imaging. Arthroscopy. 2003;19(3):257-261.
5. Caborn DN, Chang HC. Single femoral socket double bundle anterior cruciate ligament reconstruction using tibialis anterior tendon: description of a new technique. Arthroscopy. 2005; 21 (10), 1273.e1-1273.e8.
6. Cesar AQM, Eri JK, Wei S. The concept of anatomic anterior cruciate ligament reconstruction. Oper Tech Sport Med. 2012; 20: 7-18.
7. Ferretti.M, Ekdahl M, Shen W. Osseous landmarks of the femoral attachment of the anterior cruciate ligament: an anatomic study. Arthroscopy. 2007; 23:1218-1225.
8. Hantes ME, Zachos VC, Liantsis A, Venouziou A, Karantanas AH, Malizos KN. Differences in graft orientation using the transtibial and anteromedial portal technique in anterior cruciate ligament reconstruction: a magnetic resonance imaging study. Knee Surg Sports Traumatol Arthrosc. 2009;17(8):880-886.
9. Howell SM, Taylor MA. Failure of reconstruction of the anterior cruciate ligament due to impingement by the intercondylar roof. J Bone Joint Surg Am. 1993;75(7):1044-1055.
10. Kenneth David Illingworth et al. A simple evaluation of anterior cruciate ligament femoral tunnel position: the inclination angle and femoral tunnel angl. Am J Sports Med. 2011; 39: 2611.
11. Miller MD, Olszewski AD. Posterior tibial tunnel placement to avoid anterior cruciate ligament graft impingement by the intercondylar roof: an in vitro and in vivo study. Am J Sports Med. 1997;25(6):818-822.
12. Peter T. Scheffel MD, Robert T. Burks MD. Relationship of the intercondylar roof and the tibial footprint of the ACL.. The American Journal of Sports Medicine. 2012; Vol. 41, No. 2: 396-402.
13. Pinczewski LA, L. J. Salmon LJ, M. Jackson WF et al. Radiological landmarks for placement of the tunnels in single-bundle reconstruction of the anterior cruciate ligament. J Bone Joint Surg [Br]. 2008;90-B:172-9.
14. Shino K, Suzuki T, Iwahashi T, Mae T, Nakamura N, Nakata K, et al. The resident’s ridge as an arthroscopic landmark for anatomical femoral tunnel drilling in ACL reconstruction. Knee Surg Sports Traumatol Arthrosc. 2010; 18: 1164-1168.
15. Siebold R. Ellert T, Metz S, Metz J. Tibial insertions of the anteromedial and posterolateral bundles of the anterior cruciate ligament: morphometry, arthroscopic landmarks, and orientation model for bone tunnel placement. Arthroscopy. 2008; 24 (2): 154-161.
16. Staubli HU, Rauschning W. Tibial attachment area of the anterior cruciate ligament in the extended knee position: anatomy and cryosections in vitro complemented by magnetic resonance arthrography invivo. Knee Surg Sports Traumatol Arthrosc. 1994;2(3):138-146.
17. Van Eck CF, Schreiber VM, Mejia HA, Samuelsson K, van Dijk CN, Karlsson J, Fu FH. “Anatomic” anterior cruciate ligament reconstruction: a systematic review of surgical techniques and reporting of surgical data”. Arthroscopy. 2010;26 (9), 2-12.