Đa số những loại u xương được giới thiệu sau đây tiến triển thường lành tính. Tuy nhiên, một số loại u có thể chuyển sang ác tính, như U tế bào khổng lồ giai đoạn 3-4…U xương thường gặp ở lứa tuổi còn trẻ và trung niên, nhiều loại u có yếu tố di truyền. Phẫu thuật cắt bỏ u khi :
– U to nhanh bất thường, đau (dễ ung thư hóa)
– U to chèn ép thần kinh, mạch máu và hạn chế tầm vận động của khớp.
– Ảnh hưởng thẩm mỹ.
1. U XƯƠNG SỤN
U xương sụn chiếm ít nhất 45% khối u xương lành tính. U có khuynh hướng xảy ra ở hành xương dài, nhưng cũng có thể ở cột sống và xương sườn, phổ biến là ở hành xương dài, nhưng cũng có thể ở cột sống và xương sườn. U hay gặp ở đầu dưới xương đùi và đầu trên xương cánh tay và phát triển chậm. Bệnh nhân thường dưới 20 tuổi tại thời điểm phát hiện đầu tiên.Thời điểm chẩn đoán và điều trị lần đầu cũng không ảnh hưởng đến quá trình tiến triển của khối u.
Xquang có thể thấy hình nấm sụn có cuống, bắt nguồn từ hành xương gần sụn phát triển, và thường nghiêng hướng xa khớp. Tổn thương này hiếm khi phát triển rộng ra sau tuổi trưởng thành. Nguyên nhân chủ yếu để phẫu thuật do những triệu chứng tại chỗ liên quan đến kích thước khối u gây nên. Sự thoái triển của khối u xảy ra ở khoảng 1% số ca. Do đó, nếu khối u bất ngờ phát triển tăng kích thước cần sinh thiết và có phương án điều trị
Nhiều khối u xương sụn bẩm sinh có liên quan đến yếu tố di truyền. Nó thường phát triển chậm và có xu hướng làm cong xương dài. Sự thoái triển của u xảy ra ở 5 – 15% số ca thuộc nhóm này, nhưng cũng có nhiều trường hợp phát triển.
Điều trị bằng phẫu thuật đối với khối u gây triệu chứng chèn ép, hay khó chịu tại chỗ, bao gồm cả việc loại bỏ cuống khối u. Khối u thứ phát cần loại bỏ hoàn toàn, trong số ít trường hợp cá biệt có thể phải cắt cụt chi.
2. U NỘI SỤN
U nội sụn chủ yếu gặp ở bàn tay, gồm cả xương bàn và xương ngón tay, tiếp đến là ở đầu trên xương cánh tay. Tỷ lệ gặp ở nam và nữ là như nhau, và chiếm khoảng 10% số u lành tính. U xảy ra ở lứa tuổi từ 10 – 70, trung bình khoảng 30 tuổi. Xquang dạng nang, tổn thương mở rộng xuống thân xương ở xương dài. Không có phản ứng màng xương. Có các đốm calci hoá trong nang là hình ảnh đặc trưng. Đại thể là những hạt trắng xám cứng, thấu quang.
Tiến triển tự nhiên chậm và ít gây gãy xương bệnh lý. Triệu chứng đau thường có. Trừ u ở xương đòn hoặc xương nhỏ như ở bàn tay, bàn chân, khối u ở vị trí khác khó có thể nhìn hoặc sờ được. Điều trị bằng nạo lấy u và ghép xương.
3. U TẾ BÀO KHỔNG LỒ
U tế bào khổng lồ (TBKL) là loại u phổ biến ở quanh gối, xương cùng, đầu dưới xương quay và đầu trên xương cánh tay. Tỷ lệ nam/nữ là 3/2. Hầu như không gặp cho đến khi đóng sụn phát triển. U có khuynh hướng ở trung tâm vùng sụn phát triển và mở rộng ra xung quanh.Triệu chứng chính là đau. Gãy xương bệnh lý ít gặp.Thường chẩn đoán được khi bệnh nhân đau và đi khám trước khi có thể nhìn và sờ được khối u.
Xquang có thể thấy dạng nang mở rộng ra xung quanh. Khu vực huỷ xương có dạng như bong bóng xà phòng, bè xương bình thường, có phản ứng màng xương ít. Tổn thương này ở trong đầy những mô mềm mầu nâu cam, không có calci hoá. 98% số ca là lành tính, chỉ có 2% tiến triển ác tính và có khả năng di căn xa. U tế bào khổng lồ lành tính có thể tái phát và trở thành ác tính.
Tiến triển tự nhiên, không điều trị gì, sẽ dẫn đến khối u khổng lồ, gãy xương bệnh lý, và có thể hoại tử da ở trên khối u. Điều trị bằng phẫu thuật loại bỏ khối u. Bệnh có thể hoàn toàn khỏi. Phẫu thuật nạo u và ghép xương là phương pháp điều trị chuẩn hiện nay. Nguy cơ tái phát là 40%. Nếu tái phát, cần sinh thiết để xác định lại thể u. Nếu u có nguy cơ ác tính, cần tiến hành các phẫu thuật triệt để hơn để loại bỏ khối u. Tuy nhiên phẫu thuật nạo lấy u và ghép bằng methylmethacrylate (xi măng sinh học) cũng không hẳn không hiệu quả.
Xạ trị ít có tác dụng do nguy cơ sau xạ, trừ khi u ở tuỷ sống, xương chậu, nơi mà phẫu thuật triệt để khó có thể tiến hành được.
4. U MÁU TRONG XƯƠNG
U máu trong xương phổ biến ở hành xương của xương dài và ở cột sống, đặc biệt ở phía cung sau. Thường gặp ở khoảng 20 tuổi. Tỷ lệ nam / nữ là bằng nhau. Triệu chứng chính là đau và sưng. Gãy xương bệnh lý ít gặp.
Xquang thấy tổn thương lệch tâm hành xương chứa nang mở rộng với nhiều ngách. Những hốc nhỏ có vách mỏng ở trong. Khối u là các hốc máu với màng mỏng ở ranh giới.
Những u loại này thường phá huỷ tại chỗ, nhưng không di căn.
Điều trị gồm phẫu thuật lấy u. Xạ trị được áp dụng chỉ với những tổn thương mà khó có thể phẫu thuật được. Khả năng tái phát khoảng 30 – 60%, và phụ thuộc: phẫu thuật lấy u, tuổi bệnh nhân( thường nguy cơ cao hơn ở bệnh nhân dưới 15tuổi), và kích thước khối u ( u càng to, nguy cơ tái phát càng cao).
5. NANG XƯƠNG ĐƠN ĐỘC
Nang xương đơn độc có thể gặp ở tất cả lứa tuổi. Đây là tổn thương lành tính có khả năng tự khỏi. PHần lớn gặp ở trẻ em từ 5 – 15 tuổi. Nam / nữ là 3/2. U thường không có triệu chứng đến khi có gãy xương bệnh lý
Xquang thấy nang xương có nhiều ngăn, đặc biệt là thấu quang, ở đầu trên xương hoặc gần sụn phát triển. Lớp vỏ thường mỏng, không có phản ứng màng xương. Thường gãy xương bệnh lý ít hoặc không di lệch
Nang xương chủ yếu là chứa dịch với vỏ mỏng, dịch có thể như huyết thanh hoặc như máu. Tổn thương cũng đa dạng, từ to đến nhỏ, đôi khi phát hiện trên X quang trong khi đang tìm bệnh lý khác. Tổn thương này thường lan ra theo đường kính của hành xương. Gãy xương bệnh lý tự nhiên gặp ở 15% số ca mắc. Trước đây, điều trị thường nạo bỏ u và ghép xương tự thân. Tái phát thường ở 20 – 50% số ca, và tỷ lệ này cao gấp đôi ở trẻ dưới 10 tuổi so với trẻ trên 10 tuổi. Kỹ thuật cắt bỏ nang rộng rãi, kể cả thành xương, có hoặc không ghép xương có tỷ lệ tái phát là 5 – 9%, nhưng kỹ thuật này tiến hành trên số ít trường hợp. Nếu đầu trên của nang tiếp xúc với tấm phát triển, nang này được phân loại là thể nang hoạt động, ngược lại là nang tiến triển âm thầm. Nang hoạt động có nguy cơ tái phát cao hơn sau phẫu thuật và nguy cơ tổn thương tấm sụn phát triển. Kỹ thuật tiêm methylprednisolon là kỹ thuật mới, an toàn sau phẫu thuật. Kết quả khả quan với tỷ lệ tái phát 5 – 10%, và ít biến chứng.
Kết quả mong đợi cho đến khi gãy xương bệnh lý lành lại, và cần sinh thiết kiểm tra. Tuy sinh thiết khó vì tổn thương thực sự nhỏ, nhưng cần phân biệt với tổn thương u đơn độc.
6. U NGUYÊN BÀO SỤN
U nguyên bào sụn là tổn thương hiếm gặp, thường xảy ra ở sụn phát triển giai đoạn đang đóng tấm phát triển. 90% số ca từ 5 – 25tuổi. Nam/nữ là 2/1. Sụn phát triển quanh gối và đầu trên xương cánh tay là vị trí hay gặp. Đau lan vào khớp là triệu chứng chính, có thể sưng nề tại chỗ và hạn chế vận động khớp liên quan.
Xquang biểu hiện tổn thương huỷ xương. Tổn thương này không mở rộng như u tế bào khổng lồ. Thường u không xâm lấn vượt qua tấm phát triển dù đã đóng tấm phát triển này theo tuổi. Tổn thương này phát triển lệch tâm ở hành xương, và có các đường viền do calci hoá trong u. Gãy xương bệnh lý và phản ứng màng xương ít gặp. Đại thể là các hạt mô mật độ sụn chứa hốc calci hoá. U nguyên bào sụn phát triển chậm và hiếm khi ung thư hoá, dù một số ca đã được báo cáo.
Điều trị bằng phẫu thuật nạo lấy u và ghép xương. Tỷ lệ tái phát từ 10 – 40%. Nếu tái phát, tiếp tục nạo lấy u và ghép xương. Không có chứng cứ nào chứng tỏ xạ trị và hoá trị có tác dụng với u nguyên bào sụn.
U xương lành tính phần lớn điều trị bằng phẫu thuật. Khi có u, nên khám, phát hiện sớm và điều trị kịp thời trước khi khối u thực sự ảnh hưởng lớn đến chức năng vận động của chi thể, đặc biệt là những u có tỷ lệ chuyển thành ác tính.
BSCK2 Phùng Ngọc Hòa –Thạc sĩ Dương Đình Toàn