Thoái hóa khớp gối là một trong những bệnh lý thường gặp ở người có tuổi, nữ gặp nhiều hơn nam. Tổn thương chính trong thoái hóa khớp gối là sự mòn và bong gãy của lớp sụn khớp. Các mảnh vỡ của sụn, có thể kèm theo một phần xương rơi vào khớp gối tạo thành dị vật khớp gối (losse bodies). Khi lớp sụn (không có thần kinh) bị mòn sẽ để lộ lớp xương dưới sụn (có đầu mút thần kinh), sự cọ xát của lớp xương dưới sụn khi vận động là yếu tố gây đau nhiều trong thoái hóa khớp gối. Ngoài ra, sự viêm dày của bao hoạt dịch, sự kích thích màng xương của các gai xương rìa khớp gối (osteophyte) đều là những tác nhân gây nên tình trạng đau mãn tính, ảnh hưởng đến chức năng vận động của khớp. Ngày nay thoái hóa khớp gối đang trở thành mối quan tâm đặc biệt ở các nước có tuổi thọ trung bình cao, nền kinh tế phát triển.
Điều trị thoái hóa khớp gối thường dai dẳng, tùy thuộc từng giai đoạn bệnh. Cho đến nay, có nhiều phương pháp điều trị thoái khóa khớp gối, từ biện pháp không dùng thuốc (vật lý trị liệu…), dùng thuốc, cho đến sự can thiệp phẫu thuật. Nhìn chung can thiệp phẫu thuật được tiến hành khi các phương pháp điều trị nội khoa không còn hiệu quả. Phẫu thuật thay khớp gối là phương pháp điều trị ngoại khoa phổ biến khi thoái hóa khớp gối ở giai đoạn 3 và 4. Tuy nhiên có những bệnh nhân không đáp ứng được điều kiện để thay khớp, hơn nữa tuổi thọ của khớp gối nhân tạo có thời hạn nhất định, trong khi tuổi thọ của con người ngày càng tăng, phẫu thuật thay lại khớp gối (revision) có tỷ lệ thất bại cao, do vậy với bệnh nhân thuộc nhóm trẻ (<60 tuổi) thường đặt ra nhiều cân nhắc khi thay khớp, lúc đó các phương pháp bảo tồn khớp khi có chỉ định như nội soi làm sạch khớp, ghép sụn tự thân hay đồng loại, đeo nẹp chỉnh hình hay đục xương sửa trục cần được đặt ra. Gần đây là phương pháp ghép tế bào gốc tự thân nhằm tái tạo, phục hồi lại lớp sụn khớp bị tổn thương, đang mở ra nhiều triển vọng to lớn.
1. Phân loại thoái hóa khớp gối.
Thoái hóa khớp gối có hai loại:
• Thoái hóa khớp gối nguyên phát: sự lão hóa là nguyên nhân chính của thoái hóa khớp gối nguyên phát. Bệnh thường xuất hiện muộn ở người trên 50 tuổi.
• Thoái hóa khớp gối thứ phát: thường là hậu quả của các quá trình sau:
– Chấn thương: gãy xương nội khớp, can lệch, tổn thương sụn chêm, sau cắt sụn chêm, vi chấn thương liên tiếp, vẹo trục chi.
– Sau các bệnh lý xương sụn: hoại tử xương, hủy hoại sụn do viêm, viêm khớp dạng thấp, viêm khớp nhiễm khuẩn, bệnh Paget
– Bệnh khớp vi tinh thể: Gút mạn tính, canxi hóa sụn khớp
– Bệnh Hemophilia
– Bệnh nội tiết: đái tháo đường, to viễn cực, cường giáp trạng, cường cận giáp, mãn kinh
2. Một số yếu tố nguy cơ liên quan với thoái hoá khớp.
– Chấn thương và vi chấn thương có vai trò quan trọng làm thay đổi bề mặt sụn, những chấn thương lớn gây gãy xương, trật khớp kèm theo tổn thương sụn hoặc phân bố lại áp lực trên bề mặt sụn khớp.
– Yếu tố nội tiết và chuyển hoá: bệnh to đầu chi, suy chức năng tuyến giáp, phụ nữ sau mãn kinh.
– Các dị tật bẩm sinh, khớp lỏng lẻo.
– Viêm khớp nhiễm khuẩn cấp tính, hoặc mạn tính (viêm mủ khớp, lao khớp).
– Viêm khớp do các bệnh khớp mạn tính (viêm khớp dạng thấp).
– Thiếu máu, hoại tử xương.
– Loạn dưỡng xương.
– Rối loạn dinh dưỡng sau các bệnh thần kinh.
– Bệnh rối loạn đông máu (Hemophilia), u máu.
– Các dị tật ở chi dưới dẫn đến chân vẹo trục (chân chữ X hoặc chữ K)
3. Phân độ tổn thương sụn khớp.
• Phân độ theo Outerbridge:
+ Độ 0: Sụn khớp bình thường
+ Độ 1: Sụn khớp vùng thoái hóa trở nên mềm hơn, phù nề và có thể đổi màu vàng
+ Độ 2: Khuyết một phần bề dày của sụn hoặc xuất hiện các vết nứt trên bề mặt sụn khớp
+ Độ 3: Vết nứt của sụn sâu hơn nhưng ngang mức dưới sụn
+ Độ 4: Mất hoàn toàn bề dày của sụn, lộ xương dưới sụn
• Phân độ theo Kellgren và Lawrence (dựa trên phim Xquang):
+ Độ 1: khe khớp gần như bình thường, có thể có gai xương nhỏ.
+ Độ 2: khe khớp hẹp nhẹ, có gai xương nhỏ.
+ Độ 3: khe khớp hẹp rõ, có nhiều gai xương kích thước vừa, vài chỗ đặc xương dưới sụn, có thể có biến dạng đầu xương.
+ Độ 4: khe khớp hẹp nhiều, gai xương kích thước lớn, đặc xương dưới sụn, biến dạng rõ đầu xương.
4. Triệu chứng lâm sàng của thoái hoái khớp gối
– Đau khớp gối một bên hoặc hai bên
– Cứng khớp khi không hoạt động (thường buổi sáng, sau ngủ dậy, dưới 30 phút)
– Giảm khả năng vận động của gối (khó khăn khi lên xuống cầu thang, đứng lên ngồi xuống…)
– Có tiếng lục cục trong gối khi cử động
– Tăng cảm giác đau xương
– Sờ thấy ụ xương cạnh gối
– Nhiệt độ da vùng khớp bình thường hoặc tăng nhiệt độ không đáng kể.
Trong các triệu chứng trên, đau khớp gối là dấu hiệu lâm sàng chính. Đau tăng khi vận động, đỡ đau khi nghỉ ngơi.
5. Dấu hiệu thoái hóa gối trên phim XQuang.
Có 3 dấu hiệu cơ bản trong thoái hóa khớp gối trên XQ:
– Hẹp khe khớp không đồng đều, không hoàn toàn
– Mọc gai xương ở phần tiếp giáp giữa xương và sụn
– Đặc xương dưới sụn
Chẩn đoán xác định thoái hóa khớp gối nguyên phát dựa vào tiêu chuẩn của hội khớp học Hoa Kỳ (ACR) 1991 gồm:
1. Đau khớp gối
2. Gai xương ở rìa khớp (XQ)
3. Dịch khớp là dịch thoái hóa (dịch vàng nhạt, tế bào ≤ 2000/mm3, BC đa nhân trung tính <25%)
4. Tuổi từ 40 trở lên
5. Cứng khớp dưới 30 phút buổi sáng
6. Lục cục khi cử động khớp
Chẩn đoán xác định khi có các yếu tố 1,2 hoặc 1,3,5,6 hoặc 1,4,5,6
Thạc sĩ Dương Đình Toàn
(Các phương pháp điều trị thoái hóa khớp gối được trình bày ở các bài viết riêng, đã đăng)