Đặt lịch khám tại Bệnh viện Việt Đức qua Hotline: 0978717789.   Tư vấn: toanddd@gmail.com
  • tai-thu-vien

    Cập nhật kiến thức Cập nhật thông tin - Tư vấn giải đáp - Trao đổi kinh nghiệm

  • Cập nhật kiến thức 2-1

    Cập nhật kiến thức Cập nhật thông tin - Tư vấn giải đáp - Trao đổi kinh nghiệm

  • Cập nhật kiến thức 3-1

    Cập nhật kiến thức Cập nhật thông tin - Tư vấn giải đáp - Trao đổi kinh nghiệm

  • phau-thuat-chinh-hinh

    Phẫu thuật chỉnh hình Cập nhật thông tin - Tư vấn giải đáp - Trao đổi kinh nghiệm

  • phau-thuat-khop-goi

    Phẫu thuật nội soi khớp gối Cập nhật thông tin - Tư vấn giải đáp - Trao đổi kinh nghiệm

  • Nội soi khớp gối 3

    Phẫu thuật nội soi khớp gối Cập nhật thông tin - Tư vấn giải đáp - Trao đổi kinh nghiệm

  • thay-khop-goi1

    Phẫu thuật thay khớp gối Cập nhật thông tin - Tư vấn giải đáp - Trao đổi kinh nghiệm

  • thay-khop-goi2

    Phẫu thuật thay khớp gối Cập nhật thông tin - Tư vấn giải đáp - Trao đổi kinh nghiệm

  • thay-khop-hang

    Phẫu thuật thay khớp háng Cập nhật thông tin - Tư vấn giải đáp - Trao đổi kinh nghiệm

  • quan-he-quoc-te1

    Quan hệ quốc tế Cập nhật thông tin - Tư vấn giải đáp - Trao đổi kinh nghiệm

  • quan-he-quoc-te2

    Quan hệ quốc tế Cập nhật thông tin - Tư vấn giải đáp - Trao đổi kinh nghiệm

  • Quan hệ quốc tế 1-1

    Quan hệ quốc tế Cập nhật thông tin - Tư vấn giải đáp - Trao đổi kinh nghiệm

  • Quan hệ quốc tế 2-1

    Quan hệ quốc tế Cập nhật thông tin - Tư vấn giải đáp - Trao đổi kinh nghiệm

  • chat-luong-cuoc-song

    Người có sức khỏe, có hy vọng, và người có hy vọng, có tất cả mọi thứ.
    He who has health, has hope, and he who has hope, has everything.

Lịch sử của phẫu thuật nội soi khớp gối

Tạo hình dây chằng chéo trước (ACL) là một phẫu thuật vùng gối phổ biến ngày nay. Nhìn lại lịch sử của phẫu thuật này mới thấy kinh ngạc vì phải mất một thời gian lâu dài mới có thể xây dựng nên kỹ thuật thăm khám và điều trị cho tổn thương này. Từ xa xưa, ACL là một cấu trúc mà con dao của phẫu thuật viên không bao giờ chạm đến được. Tuy nhiên, khoảng những năm đầu của thế kỷ 20, đã có những tiến bộ trong nhận thức về giải phẫu và tổn thương của ACL và từ đó, những kỹ thuật trong chẩn đoán và điều trị đã có những bước tiến vượt bậc.

I. Giai đoạn đầu của sự phát triển những hiểu biết về chẩn đoán và các phương pháp điều trị.

Dây chằng chéo trước đã được nhắc đến từ thời Hypocrates nhưng những hiểu biết sâu sắc hơn về giải phẫu, chức năng, chẩn đoán và điều trị thì phải rất nhiều năm sau mới hoàn thiện được. Đến khoảng trước năm 1845, Amédée Bonnet đã viết 1 bài chuyên luận về chấn thương khớp gối gây tràn máu khớp. Tác giả đã mô tả ba dấu hiệu cần thiết để chẩn đoán đứt ACL cấp tính: “Ở những bệnh nhân không có tổn thương gãy xương, có tiếng kêu trong khớp, tràn máu khớp gối và gối mất chức năng là những dấu hiệu đặc trưng của chấn thương dây chằng khớp gối.” Ý kiến của ông dựa trên những kinh nghiệm lâm sàng cũng như những nghiên cứu trên xác. Bài viết này vẫn còn chưa được biết đến và đã không được xuất bản trên y văn tiếng Anh.

1

Hình 1: George K. Noulis

Vào năm 1875, Georges K. Noulis (1849-1919) (Hình 1), một sinh viên Y khoa xuất sắc người Hy lạp đã đến Paris để đệ trình nghiên cứu của ông có tựa đề là Chấn thương dây chằng khớp gối (Knee Sprains). Trong luận văn của mình, tác giả đã mô tả chính xác vai trò của ACL, và chỉ ra rằng làm thế nào để xác định ACL còn nguyên vẹn khi khám ở tư thế duỗi gối. Nghiệm pháp này về sau được biết với tên gọi “Lachman test”

nội soi khớp gối

Hình 2: Paul Segond

Vào năm 1879, một phẫu thuật viên ở Paris, Paul F. Segond, (1851-1912) (Hình 2) đã viết một bài báo rất lý thú với tựa đề: Nghiên cứu lâm sàng và thực nghiệm tràn máu khớp gối do chấn thương dây chằng, đăng trên tạp chí Progrès Médical. Trong nghiên cứu này, Segond đã thực hiện lại thực nghiệm của Bonnet, tạo ra tổn thương khi gối gấp 90o. Cũng trong bài viết này, ông đã mô tả tổn thương bong rìa phía trước ngoài của mâm chầy có phối hợp với tổn thương ACL. Kiểu gãy này ngày nay được biết với tên gọi của chính ông và được quan tâm là một dấu hiệu đặc trưng của đứt ACL.

Vào năm 1895, A.W. Mayo Robson (Leeds, UK) đã thực hiện phẫu thuật phục hồi dây chằng chéo đầu tiên ở một người thợ mỏ 41 tuổi, bị chấn thương do ngã cao cách đó 36 tháng. Bệnh nhân phàn nàn vì đi tập tễnh do chân phải yếu và gối phải mất vững. Cả hai dây chằng được khâu lại ở vị trí bám vào xương đùi, 6 năm sau, bệnh nhân mô tả gối anh ta “hoàn toàn khỏe mạnh” và có thể đi lại bình thường cũng như chạy; từ khi anh ta ra viện, anh ta không phải nghỉ làm vì cái gối chấn thương của anh ta nữa. Ca lâm sàng này không được thông báo trên y văn tới tận năm 1903. Vào khoảng thời gian đó, vào năm 1900, một tác giả khác là Brit, W.H. Battle, đã trình diễn một ca phục hồi dây chằng chéo khớp gối tới Hội Lâm Sàng Luân Đôn(Clinical Society of London) và cho rằng đó là ca đầu tiên. Vào năm 1903, F. Lange , ở Munich, đã thực hiện ca thay thế ACL đầu tiên, trong đó sử dụng chỉ lụa dệt và gân bán gân như vật liệu thay thế. Phẫu thuật đã không thành công tuy nhiên,ý tưởng này đã mở ra một hướng đi mới trong phẫu thuật tái tạo ACL bằng vật liệu nhân tạo sau này….

Nội soi khớp gối

Hình3 : Hey Groves’ technique

Vào năm 1917, Ernest W. Hey Groves ở Bristol đã thực hiện ca tạo hình ACL đầu tiên sử dụng vật liệu là mảnh ghép dải chậu chầy. Đường vào là đường rạch da hình móng ngựa phía trước có đục lồi củ trước xương chầy để mở rộng đường vào khớp gối. Đường rạch da được kéo dài ra phía ngoài để thuận tiện cho việc lấy dải chậu chầy. Lúc đầu, mảnh ghép được lấy rời hẳn khỏi xương và luồn qua đường hầm xương chầy và xương đùi, khi thoát ra khỏi xương chầy, mảnh ghép được khâu cố định vào màng xương và facia lata. Lồi củ trước xương chầy được cố định lại với 2 vit. Kỹ thuật này về sau được cải tiến như sau: mảnh ghép có kích thước khoảng 20 cm x 8 cm được giữ còn dính với xương chày. Mảnh ghép được đưa vào qua đường hầm xương đùi từ lồi cầu ngoài xương đùi, qua khớp và thoát ra ở phía trước ngoài của gai chầy qua đường hầm xương chầy ra ngoài ở phía trước trong của xương chầy. Từ đó, mảnh ghép được luồn lên mặt trong của lồi cầu trong xương đùi và cố định ở đó (Hình 3). Vào năm 1918, Maj. S. Alwyn Smith ở Cardiff thông báo 9 trường hợp tạo hình ACL bằng kỹ thuật Hey Groves và chỉ ra sự mất đi cấu trúc tự nhiên và do đó khó khăn cho việc kéo dài MCL. Tác giả cũng mô tả dụng cụ để thực hiện kỹ thuật này (Hình 4) và nhắc đến một số kỹ thuật khác được thực hiện như kỹ thuật uốn nếp, cuộn, vòng và vật liệu thay thế dây chằng khác được làm từ lụa.

Nội soi khớp gối

Hình 4: Alwyn Smith’s technique

Vào năm 1920, Hey Groves, trên tạp chí British Journal of Surgery, đã thông báo những phát hiện của ông về giải phẫu và sinh lý cũng như tổn thương và phẫu thuật phục hồi của dây chằng chéo. Đặc biệt, ông cũng mô tả sự di lệch về phía trước của xương chầy mà người bệnh có thể tạo ra bằng cách đeo vật nặng vào cẳng chân ở tư thế gối hơi gấp. Ông cũng thấy rằng xương chầy sẽ trượt nhẹ về phía trước khi kéo mạnh về phía trước ở một số trường hợp mà không được nhắc đến trong nghiên cứu trước đó của G. Noulis. Tất cả các tài liệu tham khảo trong bài viết của ông bằng tiếng Anh hoặc tiếng Đức. Hey Groves cũng sử dụng khái niệm mất vững trước ngoài khi gối gấp nhẹ như một test lâm sàng của ông (Hình 5). Bài báo cũng thông báo kết quả phẫu thuật 14 bệnh nhân đầu tiên của ông từ năm 1917. Không có bệnh nhân nào có kết quả kém đi sau phẫu thuật, 4 bệnh nhân phẫu thuật không đem lại hiệu quả, 4 bệnh nhân có kết quả tốt, trở lại với công việc trước kia. Hai bệnh nhân vẫn trong chương trình tập phục hồi chức năng . Vào năm 1935, Willis C. Campbell, ở Memphis, Tennessee, thông báo ca đầu tiên sử dụng mảnh ghép gân bánh chè làm vật liệu thay thế (Hình 6). Kỹ thuật liên quan đến tạo hai đường hầm ở xương đùi và xương chầy, mảnh ghép được cố định vào màng xương đùi ở phía ngoài. Sau phẫu thuật, bệnh nhân được bất động với một nẹp cố định trong 3 tuần. Kỹ thuật này không được sử dụng rộng rãi cho tới khi MacIntosh giới thiệu lại nhiều năm sau đó.

nội soi khớp gối

Hình5:Hey roves’tes

Bài viết của Campbell được đăng trên tạp chí Surgery, Gynecology and Obstetrics, thông báo 17 trường hợp được tạo hình ACL, phần lớn là vận động viên. 9 bệnh nhân có kết quả rất tốt và có thể trở lại chơi thể thao sau mổ từ 6 đến 10 tháng. Vào năm 1939, Harry B. Macey, ở Rochester, Minnesota, mô tả kỹ thuật đầu tiên sử dụng gân cơ bán gân (Hình 7). Gân được giữ nguyên đầu bám vào xương chầy, sau đó được luồn qua đường hầm xương chầy và xương đùi và được khâu cố định vào màng xương. Tác giả sử dụng đường vào cạnh xương bánh chè phía trước ngoài. Nguyên tắc tương tự được sử dụng cho tạo hình PCL, với sự tiếp cận hố khoeo để đặt lỗ khoan xương chầy được chính xác. Chỉ có phần gân của cơ bán gân được lấy và lấy đến vị trí nối gân cơ của cơ bán gân. Đường hầm có đường kính 4.7 mm và mảnh ghép được cố định ở tư thế gối duỗi tối đa. Bệnh nhân được đeo nẹp trong 4 tuần, gấp gối tối đa sau 8 tuần.

Nội soi khớp gối

Giai đoạn 1940 to 1950 là khoảng thời gian tạm dừng phát triển (“black hole”) do chiến tranh thế giới thứ II. Sự phát triển nhanh của phẫu thuật ACL ở giai đoạn trước những năm 1940 đã đem lại hy vọng sẽ có sự phát triển nhanh chóng hơn nữa vào giữa thế kỹ 20, tuy nhiên những năm 40, 50 được coi là thời kỳ đen tối. Tất cả những thành tựu đạt được là kỹ thuật bất động chủ động và làm căng giãn dây chằng bên do Robert W. Augustine, ở Madisonville, Kentucky, thông báo năm 1956. Bài viết của Augustine liên quan đến kỹ thuật được một người Đức là German K. Lindemann (1950) phát triển, Lindemann đã sử dụng gân cơ bán gân, tách khỏi xương chầy nhưng còn gắn với bụng cơ, luồn qua hố khoeo và đi xuống qua đường hầm xương chầy ở phía trước sau đó được cố định với một sợi chỉ vào một vit cố định vào xương chầy (Hình 8). Augustine cũng mô tả cách để làm căng lại dây chằng bên đã bị chùng do chấn thương bằng cách phẫu tích tách rời chỗ bám của dây chằng vào xương đùi, gồm cả mảnh xương và cố định lại về phía gần bằng một vit. Đối với tổn thương PCL, ông cũng trình bày kỹ thuật bất động động có liên quan đến sử dụng gân bánh chè, tách khỏi chỗ bám vào lồi củ trước xương chày, luồn vào trong khớp và cố định qua đường hầm xương chầy (Hình 8). Vào năm 1948, Albert Trillat đã dạy các học trò rằng, thăm khám khớp gối nên ở tư thế duỗi gối và có thể cảm giác chính xác sự trượt ra trước và ra sau của xương chầy. Ông cho rằng đây là dấu hiệu nhậy nhất để chẩn đoán tổn thương ACL. Vào năm 1960, J. Ritchey, một sỹ quan trong Quân Đội Mỹ, đã mô tả chi tiết nghiệm pháp đánh giá mất vững khớp gối phía trước ở tư thế gối gần duỗi hết, trong tạp chí Armed Forces Medical Journal,. Mười sáu năm sau, nghiệm pháp này chính thức được gọi là Lachman.

nội soi khớp gối

Hình8 : Robert W. Augustine’s technique

Vào năm 1963, Kenneth G. Jones, ở Little Rock, Arkansas, đã thực hiện phẫu thuật có sử dụng mảnh ghép gân bánh chè còn giữ đầu bám vào xương bánh chè. Tuy nhiên, kỹ thuật do ông sử dụng có khác biệt so với những kỹ thuật ngày nay đang sử dụng. Gân được giữ nguyên đầu bám vào xương chầy, do đó không có đường hầm xương chầy và vì mảnh ghép ngắn nên tác giả đã tạo đường hầm xương đùi từ phía bờ ngoài của khe liên lồi cầu(notch) (Hình 9). Dây chằng được cố định vào màng xương ở vị trí thoát ra ở cực trên ngoài của lồi cầu. Jones đã thông báo 11 ca được phẫu thuật thành công. Trong phần bàn luận của bài báo, Don H. O’Donoghue đã chỉ ra rằng, vị trí của đường hầm xương đùi không đúng; tuy nhiên, kỹ thuật này đơn giản và ít tạo ra sang chấn khớp do phẫu thuật nên đã tạo ra sự khác biệt rõ rệt.

nội soi khớp gối

Hình9: The Jones procedure (early version) Instrumentation

Vào năm 1966, Helmut Brückner, một phẫu thuật viên người Đức, đã mô tả một kỹ thuật tương tự, sử dụng mảnh ghép gân bánh chè. Mảnh ghép được lấy kèm cả 1 phần xương bánh chè và giữ nguyên đầu bám bào xương chầy, sau đó được luồn qua đường hầm xương chầy, do đó đạt được chiều dài dài hơn. Sau khi luồn qua trong khớp, mảnh ghép được cố định trong đường hầm xương đùi và được cố định bởi một nút phía ngoài của lồi cầu đùi (Hình 10). Vào năm 1968, Donald B. Slocum và Robert L. Larson (Eugene, Oregon) giới thiệu một khái niệm mới về mất vững xoay của gối, nhấn mạnh đến vai trò của động tác xoay xương chầy ra ngoài trong test ngăn kéo trước ở tư thế gối gấp 90 độ, trong đánh giá những tổn thương dây chằng bao khớp phía trong. Họ cũng nhấn mạnh rằng, test này sẽ rõ hơn khi có tổn thương ACL kèm theo. Vào năm 1969, Kurt Franke (Berlin) giới thiệu việc sử dụng mảnh ghép gân bánh chè tự do, bao gồm 1/4 gân bánh chè có gắn mảnh xương ở hai đầu. Kỹ thuật này tương tự như kỹ thuật được giới thiệu trước đó của Brückner và Jones; tuy nhiên, có sự khác biệt là ông sử dụng mảnh ghép tự do. Vào năm 1976 tại Hội nghị chuyên đề về Chấn thương và An toàn trong Trượt tuyế( Symposium on Ski Trauma and Skiing Safety), ông đã thông báo 100 ca tạo hình ACL, chủ yếu là vận động viên bóng đá. Một trong những bệnh nhân của ông là vận động viên đấu vật, đã tham gia Olympic sau phẫu thuật 5 tháng. Franke cho rằng, phẫu thuật tái tạo ACL cần được tiến hành càng sớm càng tốt trước khi sụn khớp tổn thương và ông thấy rằng, tổn thương sụn khớp có liên quan với đau sau phẫu thuật ở khoảng 10% bệnh nhân khi tỳ chân. Franke cũng cho rằng, phẫu thuật này không nên tiến hành cho những bệnh nhân trên 50 tuổi. Đó là những phát triển cơ bản của phẫu thuật tạo hình ACL.

II. Giai đoạn những năm 70

 Sự trở lại của các kỹ thuật tạo hình ngoài khớp Vào những năm 70, mọi việc có vẻ như trở lại điểm xuất phát, đây là sự xuất hiện và phát triển trở lại của các kỹ thuật tạo hình ngoài khớp không liên quan đến giải phẫu. Nghĩa là các kỹ thuật không phải tạo hình lại dây chằng mà làm vững khớp gối bằng các phẫu thuật khác. Vào năm 1972, D. L. MacIntosh, ở Toronto, mô tả lại nghiệm pháp thăm khám đã được Hey Groves mô tả vào năm 1920, gọi là pivot shift. Để chống lại sự mất vững của gối, ông đã mô tả kỹ thuật sử dụng dải chậu chầy có cuống bám vào xương chầy, sau đó luồn dưới dây chằng bên ngoài và cố định vào vách gian cơ ngoài (gọi là MacIntosh 1 hay là MacIntosh ngoài khớp). Với cải tiến sau đó (gọi là MacIntosh 2), mảnh ghép được luồn vào trong khớp qua đường hầm xương chầy, tuy nhiên điểm nổi bật nhất của kỹ thuật này chính là đoạn ngoài khớp của mảnh ghép.

nội soi khớp gối

Hình 10: Helmut Brückner’s procedure

Vào năm 1975, M. Lemaire mô tả kỹ thuật tạo hình dây chằng ngoài khớp của ông, trong đó, về phía trong, gân cơ thon được dùng để tạo hình lại dây chằng bên trong, về phía ngoài, dải chậu chầy được sử dụng để tạo hình lại ACL. Tạo hình ACL (Hình 11) theo kỹ thuật này được gọi là Lemaire bên ngoài (Lateral Lemaire). Kỹ thuật này được thông báo lần đầu tiên vào năm 1967, gọi là thủ thuật để “kiểm soát hậu quả xấu của đứt ACL”. Tác giả cho rằng kỹ thuật này “tạo ra triển vọng tốt hơn để trở lại hoạt động thể thao hơn là chuyển gân hoặc là dải chậu chầy”. Một vài cải tiến của kỹ thuật này (Lemaire II, III, IV) đã được phát triển, trong đó chủ yếu là sự khác nhau về đường đi của mảnh ghép so với dây chằng bên ngoài. Lemaire đã thông báo 453 trường hợp đã được phẫu thuật và theo dõi 12 tháng, trong đó chú ý đến khả năng trở lại hoạt động thể thao của vận động viên. Trong nhóm có tổn thương ACL đơn thuần, tỷ lệ kết quả tốt đến 91%, ông cho rằng tổn thương sụn chêm kèm theo làm kết quả kém hơn so với tổn thương ACL đơn thuần. Vào năm 1976, với sự đóng góp của John Lachman (1956-1989), ở Philadelphia, được biết đến thông qua bài báo cáo của học trò của ông là Joseph S. Torg, người đã mô tả một nghiệm pháp thăm khám khớp gối tại cuộc gặp thường niên của LAOS tại New Orleans 1976, và gọi là nghiệm pháp Lachman để tưởng nhớ người thầy của mình. Tuy nhiên, nguyên tắc cơ bản của nghiệm pháp này đã được mô tả bởi nhiều người khác như Ritchey năm 1960, Trillat năm 1948, và Noulis năm 1875, mặc dù những đóng góp của họ trong chẩn đoán đứt ACL đã không được nhận ra trước đó. Vào năm 1979, D. L. MacIntosh và J. L. Marshall đã sử dụng mảnh ghép gân bánh chè, mảnh ghép được cố định lên đỉnh của lồi cầu ngoài và lồi củ Gerdy xương chầy. Kỹ thuật này (gọi là MacIntosh 3 hay là Marshall-Macintosh).

III. Giai đoạn những năm 80

Sự phát triển của dây chằng bằng vật liệu tổng hợp và phẫu thuật nội soi Những kỹ thuật sử dụng vào cuối những năm 70 gây tổn thương quá nhiều phần mềm và không tạo được một kết quả tốt thực sự. Đó là lý do tại sao một thế hệ phẫu thuật viên mới đã trở lại với những ý tưởng trước đó về tạo hình ACL. Vào khoảng 1903, Lange, ở Munich đã sử dụng chỉ lụa tổng hợp để tăng cường cho gân bán gân để tạo hình ACL măc dù không thành công. Corner, vào năm 1914, đã sử dụng chỉ kim loại bạc. Vào năm 1975, Rubin, Marshall, và Wang đã phát triển một vật liệu tổng hợp để thay thế cho ACL làm từ Dacron. Vào đầu những năm 80, có xu thế sử dụng sợi tổng hợp cacbon và việc sử dụng vật liệu này trở thành trào lưu thời bấy giờ. Vào năm 1981, D. J. Dandy (Cambridge) là người đầu tiên dùng nội soi để tạo hình ACL bằng vật liệu tổng hợp cacbon. Kết quả rất tồi tệ. Sự không may mắn là việc tìm ra sự lắng đọng cacbon trên màng hoạt dịch và ở gan đã chấm dứt việc sử dụng vật liệu này. Khi sợi cacbon không được sử dụng, Dacron và Gore-Tex được sử dụng trở lại, và với thế hệ phẫu thuật viên nội soi đã nắm bắt và sử dụng vật liệu này để tạo hình ACL nhanh chóng, ít gây sang chấn và hiệu quả. Tuy nhiên, đến cuối những năm 80, tỷ lệ viêm màng hoạt dịch và đứt dây chằng được tái tạo cao một cách không thể chấp nhận được. Tỷ lệ này ngày càng tăng theo thời gian và dẫn tới việc ngừng sử dụng vật liệu này. Trong thời gian này, một số phẫu thuật viên vẫn trung thành với ý tưởng sử dụng vật liệu ghép tự thân, chỉ có một sự khác biệt là họ thực hiện bằng phẫu thuật nội soi. Tuy nhiên, nhóm này bị chia thành 2 nhóm theo những nguyên lý khác nhau. Một nhóm theo nguyên lý “NGOÀI VÀO” với việc đưa mảnh ghép vào khớp qua đường hàm xương đùi như các tác giả:

  • 1980: Clancy
  • 1983: Noyes
  • 1884: H. Dejour (Lyon).

Nhóm kia thực hiện kỹ thuật “TRONG RA” với việc đưa mảnh ghép từ trong khớp ra ngoài qua đường hầm xương đùi như các tác giả:

  • 1984: Rosenberg (Salt Lake City)
  • 1983: Gillquist (Sweden)

Sự tranh cãi giữa hai nhóm không ngừng và những năm 80 là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của phẫu thuật nội soi và việc hiểu biết rõ hơn về vị trí bám của các dây chằng, điều này đã đóng vai trò rất quan trọng trong những kết quả thu được của thời gian này.

IV. Giai đoạn những năm 90

Kỹ thuật của Jones có còn được coi là “Tiêu chuẩn vàng” và sự bùng nổ của các loại phương pháp tạo hình dây chằng qua nội soi khớp. Một kỹ thuật xuất hiện và đóng vai trò quan trọng vì sự đơn giản và những kết quả lâm sàng thu được rất tốt, đó là kỹ thuật sử dụng mảnh ghép gân bánh chè tự do, được gọi là kỹ thuật Jone, được sử dụng rất rộng rãi. Cùng thời gian này, vis kim loại được sử dụng. Vào năm 1987, M. Kurosaka (Kobe, Japan) đã chỉ ra rằng điểm yếu nhất của mảnh ghép được tái tạo chính là vị trí bám của nó, tức là mảnh ghép cần được cố định thật vững chắc. Các nghiên cứu trên xác cũng chỉ ra một cách rõ ràng là vis xốp với đường kính 9 mm cho kết quả vững chắc hơn tất cả các cách cố định khác. Vài năm sau đó, các vis này được chế tạo với vật liệu tự tiêu như PLA (polylactic acid – France, 1992) hoặc PGA (polyglycolic acid – US, 1990). Vào đầu những năm 90, kỹ thuật Jones được hỗ trợ với việc tăng cường sự vững chắc phía bên ngoài, nhưng đến giữa những năm 90, kỹ thuật này được sử dụng đơn thuần mà vẫn cho kết quả tốt tương tự. Một vài yếu tố đóng góp vào tỷ lệ thành công cao của phẫu thuật này, trong đó, chủ yếu là vấn đề chẩn đoán và điều trị sớm tổn thương ACL.

nội soi khơp gối

Hình11 : Lemaire’s extra-articular reconstruction

Tuy nhiên, kỹ thuật Jones vẫn có điểm yếu của nó, đó là những hậu quả do việc lấy gân bánh chè nên một số bệnh nhân có dấu hiệu hạn chế vận động gối và hơn thế là vấn đề của cơ chế duỗi gối( bánh chè và gân bánh chè). Chính vì vậy, vào năm 1982, A. B. Lipscomb (Nashville, US) bắt đầu sử dụng các “gân chân ngỗng”( gân bán gân và gân cơ thon) có cuống ở xương đùi (Hình 12). Một kỹ thuật tương tự, chỉ sử dụng gân bán gân, được giới thiệu trước đó vào năm 1975, bởi K. O. Cho. Vào năm 1988, M. J. Friedman là người đầu tiên sử dụng mảnh ghép tự thân 4 bó để tạo hình ACL bằng nội soi. Sau đó, vào năm 1993 (sau cuộc gặp hàng năm của Hội Chấn Thương Chỉnh Hình Mỹ tại Boston, 1992), R. L. Larson, S. M. Howell, Tom Rosenberg (US), và Leo Pinczewski (Sydney), đã sử dụng gân bán gân và gân cơ thon tết thành 3 hoặc 4 bó để tạo hình ACL. Pinczewski đã sử dụng kỹ thuật “all-inside” , với một vis cố định đặc biệt 8 mm đầu tròn về sau được biết với tên gọi vis RCI . Bắt đầu xuất hiện nhiều cách thức cố định mảnh ghép khác nhau mà cùng sử dụng gân bán gân và gân cơ thon, Tom Rosenberg giới thiệu kỹ thuật cố định gọi là Endo-Button, cố định mảnh ghép vào mặt ngoài của lồi cầu ngoài xương đùi. L. Paulos sử dụng vis tổng hợp; G. Barrett, sử dụng mảnh xương ghép; S. Howell and E. Wolf, cố định bằng cross-pinning; A. Staehelin, sử dụng vis tự tiêu; L. Johnson, dùng staple; và những người khác dùng vis và miếng đệm. Các ý tưởng rất nhiều nhưng chỉ có thời gian mới trả lời được phương pháp nào là hiệu quả hơn.

V. Hướng đến thế kỷ 21

Mảnh ghép đồng loại bắt đầu chứng minh hiệu quả lâu dài của nó, các nghiên cứu về mảnh ghép dị loại và mảnh ghép tổng hợp vẫn tiếp tục và bước đầu cho kết quả khả quan. Các hiểu biết sâu sắc hơn về giải phẫu và động học của dây chằng làm cho kỹ thuật phẫu thuật có những thay đổi và đa dạng hơn trước đó. Có vẻ như tương lai có rất nhiều triển vọng, C. Imbert đã gợi ý sử dụng mảnh ghép nhân tạo, được tạo ra do quá trình nuôi cấy mô và tế bào. Cũng có thể, tổn thương dây chằng mới sẽ được phục hồi với công nghệ gen, những nghiên cứu này đang được tiến hành ở Pittsburgh, US (F. Fu). Một điều chắc chắn là câu chuyện hấp dẫn về phẫu thuật tạo hình ACL vẫn chưa ngừng tiếp diễn và vì vậy, bài viết này được dành cho những nhà chấn thương chỉnh hình, những người sẽ viết tiếp câu chuyện về phẫu thuật này trong tương lai.

nội soi khớp gối

Hình 12: A. B.Lipscomb’s technique

PGS.TS Nguyễn Văn Thạch (Lược dịch và tổng hợp)

Tin liên quan

  1. Diễn biến mảnh ghép sau mổ tái tạo dây chằng chéo khớp gối và chế độ vận động phù hợp

    Quá trình phục hồi dây chằng chéo khớp gối sau mổ tái tạo phụ thuộc vào nhiều...
  2. NHỮNG BÀI TẬP KHỚP GỐI ĐƠN GIẢN VÀ NHỮNG LƯU Ý TRƯỚC KHI MỔ TÁI TẠO DÂY CHẰNG CHÉO TRƯỚC

    Một trong những biến chứng thường gặp nhất sau mổ tái tạo dây chằng chéo trước...
  3. Tiếp cận phương pháp mới điều trị tổn thương dây chằng chéo trước khớp gối

    Phương pháp kinh điển điều trị tổn thương dây chằng chéo khớp gối hiện nay...
  4. Viêm màng hoạt dịch khớp gối mạn tính không đặc hiệu

    1. ĐẠI CƯƠNG Viêm khớp không đặc hiệu được định nghĩa là bất kể loại viêm...
  5. Tập phục hồi chức năng sau mổ thay khớp gối

    Thoái hóa khớp là bệnh thường gặp ở người có tuổi. Bệnh thường xuất hiện...
  6. Các phương pháp phẫu thuật tái tạo dây chằng chéo trước khớp gối

    Tổn thương dây chằng chéo trước (DCCT) là một trong những tổn thương hay gặp nhất...
  7. Bài tập phục hồi chức năng sau mổ tái tạo dây chằng chéo sau khớp gối

    Đứt dây chằng chéo sau là thương tồn thường gặp trong chấn thương khớp gối....
  8. Bài tập phục hồi chức năng sau mổ rách sụn chêm khớp gối

    Rách sụn chêm là một trong những tổn thương  thường gặp trong chấn thương khớp...
  9. Tiêm corticoid vào khớp: Dễ dãi là mang họa

    Khi tuổi thọ càng cao sẽ kéo theo nhiều hệ lụy liên quan tới xương khớp. Trong một...